Saturday, November 19, 2016

Theo Việt Cộng - Hoàng Long Hải



Theo Việt Cộng
 
 

Việc Nguyễn Tấn Dũng theo Việt Cộng, ngoài lý do chung của một số thanh niên ở vùng nầy, y có nhiều lý do riêng. Nhìn chung thì trước hết là vì sợ bị bắt “quân dịt, quân gà”. “Quân dịt quân gà” là cách nói đùa của dân địa phương. Đúng ra là sợ đi lính Quốc Gia.

            Người dân ở đây chẳng “Cọng sản Cộng siếc, Quốc da, Quốc xương” gì cả. Họ là dân “tu hiền” (Theo đạo Hòa Hảo, cờ Đà) tuy không tích cực và nhuộm nhiều màu sắc chính trị như dân Long Xuyên chính hiệu, nhưng bên nào cũng được, miễn được ở yên, lo làm ăn.

            Đi lính Quốc Gia khổ lắm, nhất là khi bị bắt đi quân dịch. Lính quân dịch gốc miền Nam, Vùng 4 thì đưa ra Trị Thiên, Nam, Ngãi ở Vùng 1 để khỏi trốn về. Lên đường ra miền Trung thì lâu lắm, vài ba năm sau, mới được về phép; nhiều khi có đi không về, có khi về trong… quan tài. Thật ra, thường thì khi tử trận, bị chôn luôn ở “ngoải”, gia đình chỉ nhận có cái giấy báo tử và “tiền tử”.

            Dù vậy, nếu có được cái bằng tú tài nhờ gia đình khá giả cho con ra học ở Rạch Giá hay Cần Thơ, Saigon… khi đi lính cũng đi sĩ quan Cộng Hòa. Sau 1975, không ít người “được cách mạng” cho đi “học tập” mút mùa Lệ Thủy.

            Có người tới tuổi cũng đăng vào nghĩa quân hay địa phương quân, phục vụ gần nhà, nhưng việc nầy hơi “rắc rối”, một là phải có “trà nước”, cũng không nhiều nhặn gì, nhưng ngặt nỗi dân quê nghèo lắm, “tay làm hàm nhai” nên “chịu thua”; hoặc có bà con làm việc ở quận, tỉnh, v.v… giúp đõ cho. Vô Nghĩa Quân thì chỉ quanh quẩn ở quận, xã. Đêm tới đồn ngủ, canh gác. Ngày thì chia vài người ở lại giữ đồn, phần đông về nhà làm ruộng, tới chiều tối lại vô đồn.

            Làm lính cỡ nầy khoẻ lắm. Sáng về nhà, chiều vô, xách theo ít đồ nhậu, chai rượu, họp nhau nhậu cho tới khuya. Đồn Vàm Rầy (Xã Đức Phương, xã của “chị” Tư Nết – Xin xem lại bài trước để biết chị Tư Nết là ai!), có nhiệm vụ giữ cầu Vàm Rầy. Chiều lại, nghĩa quân vô đồn, kéo concertina chận hai đầu cầu, không cho ai qua lại vì đã tới giờ giới nghiêm. Xong, kéo nhau ra giữa cầu cho được trăng thanh gió mát, nhậu đã đời sương gió. Riết rồi thành thói quen. Việt Cộng điều nghiên, chờ khi mấy chú nhậu đã, chúng lặn vô chân cầu, cột mìn, cho nổ. Vậy là nghĩa quân lớp chết, lớp bị thương, lớp mất tích. Có người mất tích, bị nghi là theo Việt Cộng. Mấy ngày sau, có mùi hôi thúi từ trong đám lau gần chân cầu bay ra. Người ta tìm tới xem, té ra có một chú “mất tích” chết nằm trong ấy. Sức mạnh của mìn hất anh ta từ cầu văng vào bụi lau mà không ai hay! Việc nầy xảy ra hồi mùa hè 1974.

            Ai không đăng được Nghĩa Quân hay Địa Phương Quân mà không muốn đi quân dịch để bị đưa ra tới “ngoải” thì lủi “vô bưng”. Ban đầu chỉ mới lủi vô nửa chừng, giữa ruộng, chưa tới bưng, chưa theo Việt Cộng. Theo Việt Cộng cũng dễ chết không thua gì đi lính Quốc Gia.

            Năm ba anh trốn quân dịch dựng một cái chòi trong đám lõi rừng chồi, rừng tràm trong ruộng. Lõi là một cái rừng nhỏ, chung quanh là lau sậy, đế, ô-rô, cóc-kèn, v.v… không quá gần ngoài kinh, ngoài lộ, vùng Quốc Gia, không quá sát rừng tràm, gần Việt Cộng. Họ sinh sống bằng nghề giăng câu, đạt lợp, bắt cá. Gia đình tiếp tế gạo muối, thuốc rê, áo quần vào, rồi lấy cá tươi hay cá khô đem về bán kiếm tiền. Hễ có Việt Cộng từ trong rừng ra tuyên truyền theo “cách mạng” thì cũng ừ hử cho qua chuyện hay hẹn lần hẹn lữa. Còn lính Quốc Gia có vô thì chúng lội tuốt vô rừng tràm.

            Trong rừng nhiều Việt Cộng, lính tráng ít vô. Có lần lính thám báo chi khu đi rình Việt Cộng, bắn lầm. Hai người chết, còn lại bị thương, cho ghe chở ra bệnh viện Rạch Giá, còn người chết đem xác về chôn, chẳng thưa kiện ai được! Có ông hội đồng tỉnh tính làm lớn chuyện nầy để kiếm phiếu cho kỳ bầu cử tới nhưng gặp ông quận trưởng cao tay ấn, vừa đánh vừa thoa nên mọi việc êm xuôi.

Ngoài lý do chung như tôi vừa nói ở trên, Nguyễn Tấn Dũng (NTD) có những lý do riêng.

Trong bài “Chị Sứ – Hòn Đất”, tôi có nói là dân địa phương đồn đãi (Sau 1975 người ta đồn càng dữ, chẳng ai cải chính). NTD cũng không dại gì cải chính rằng ông ta là cháu ngoại ông Nguyễn Sinh Sắc, tức gọi Hồ Chí Minh bằng cậu.

Hồi đầu thế kỷ 20, ông Nguyễn Sinh Sắc, sau khi bị cách chức tri huyện Bình Khê, ông lưu lạc vào Nam làm thầy thuốc Bắc, hết Saigon rồi tới miền Tây, và qua đời ở Cao Lãnh. Ngôi mộ hiện còn ở Cao Lãnh, do một ông quận trưởng Quốc Gia thời Ngô Đình Diệm xây cho, cũng khang trang đẹp đẽ. Khi ở Cao Lãnh, ông Sắt có léng phéng với một người đàn bà, đáng tuổi con, đẻ ra một đứa con rơi, con gái. (Dòng họ Hồ nầy sao nhiều con rơi vậy, kể từ đời ông Hồ Sĩ Tạo là ông nội “thiệt” của ông Hồ Chí Minh?). Người con gái rơi đó là mẹ ông NTD. Cũng có người đồn NTD là con rơi của Nguyễn Chí Thanh, Nguyễn Văn Linh?!

            Thân phụ NTD là ai?

            Có thể là một ông cán bộ người Bắc vô Nam hoạt động hồi 9 năm (1945-54). Người ta cũng đồn sau khi hiệp định Gevève ký kết, ông nầy không tập kết ra Bắc mà nằm vùng trong Nam, cũng ở Rạch Giá, bí danh là Ba Kiếm.

            Hồi tôi về Cái Sắn, lật “hồ sơ trận liệt” ra xem thì thấy Ba Kiếm là bí thư huyện Châu Thành B. Huyện Châu Thành B. của Việt Cộng là kể từ kinh Cái Sắn về hướng tây, giáp với huyện Hà Tiên. Chỗ ranh giới hai huyện nầy của Việt Cộng thì tôi không rõ, nhưng trên trục lộ 8A từ Rạch Giá – Hà Tiên thì xã Tín Đạo thuộc huyện Hà Tiên, còn gần Rạch Giá hơn như xã Sóc Soài, Sóc Sơn, xã Mỹ Lâm của Nguyễn Tấn Dũng thì thuộc huyện Châu Thành B. của Việt Cộng.

            Hồ sơ trận liệt cho biết Ba Kiếm là người gốc Bắc. Ban đầu tôi hơi ngờ, không lý Ba Kiếm là “dân di cư”. Hỏi ra thì không phải, ông nầy vào Nam hồi 9 năm. Tuy nhiên, hồ sơ trận liệt cũng không nói vợ con của Ba Kiếm là những ai.

            Dân Kiên Lương, những người từng theo Việt Minh thời chống Pháp 1945-54, ít nhiều biết tới Mười Minh.

            Mười Minh là ai?

            Mười Minh là bí danh, tên thật là là Nguyễn Tấn Thử. Thử là chuột, có lẽ ông tuổi tý, sinh năm 1924, đồng chí thân cận của Võ Văn Kiệt khi cả hai hoạt động ở miền Tây Nam bộ, từng làm chính trị viên cho bộ đội địa phương tỉnh Rạch Giá (tên gọi của Việt Minh) hồi trước 1954.

Mười Minh bị Tây bắn chết trước hiệp định Genève năm 1954, sau khi vợ ông ta sinh một gái rồi tới một trai. Trai đặt tên là Nguyễn Tấn Dũng.

Khi cha chết rồi, Nguyễn Tấn Dũng còn nhỏ lắm, theo mẹ về cư ngụ ở xã Mỹ Lâm.

Có người bạn thân, về quê ở Rạch Giá thăm bà con, mới qua lại Mỹ gọi điện thoại nói với tôi, biểu tôi viết lại cho rõ: Nguyễn Tấn Dũng theo Việt Cọng khi mới 12 hoặc 13 tuổi, nghĩa là khoảng năm 1961, 62, có ra Rạch Giá học lớp nhì, nhưng chỉ được ít lâu thì bỏ học.

Ngày 1 tháng 5, 1975, sau khi từ trong rừng ra, tiếp thu thị trấn Hà Tiên, Kiên Lương là “huyện đội”, thành lập chế độ quân quản. Vì vậy mà “Năm Dũng”, trưởng ban Quân y huyện đội Hà Tiên mới tiếp thu bệnh viện Quân Dân y quận Kiên Lương (của ta). Nguyễn Tấn Dũng là con thứ ba, nhưng không hiểu sao hồi đó, bọn họ gọi y là “Năm Dũng” (thứ năm).

Sau khi chế độ quân quản giải tán, Ba Dũng “biên chế” về Cà Mau, chuyển qua ngành Công An. Sau khi “hòa bình”, Ba Dũng liên lạc với sáu Dân, sư phụ của thân phụ y ngày xưa. Muốn mau “thăng tiến”, Ba Dũng chuyển qua Công An, dễ cho y hơn. Nếu cứ ở ngành y, muốn thăng chức, Ba Dũng phải học thêm: từ y tá, lên y sĩ, bác sĩ… Con đường nầy, đối với Ba Dũng hơi khó đấy bởi Ba Dũng thuộc hạng học trò “đút vở bụi tre”, chơi thì giỏi, học thì dốt. Cũng nhờ chuyển ngành, học “trường đảng”, Ba Dũng mới dễ dậu bằng tiến sĩ chính trị, kinh tế, giao thông, giỏi nhất là luật, lại là “luật đi đường”.

Khi mới ra tiếp thu thị trấn Kiên Lương, “Năm Dũng” có mang theo một nữ y tá, cũng trong rừng ra. Hai người sống chung với nhau trong bệnh viện Quân Dân y Kiên Lương, phía ngôi nhà ngang, sát bờ kinh. Họ lấy nhau không cưới hỏi gì cả. Cô nữ y tá ấy là vợ Nguyễn Tấn Dũng bây giờ.

Người làm phó cho “Năm Dũng” hồi đó là Sáu Khởi. Khi “Năm Dũng” chuyển qua ngành Công An, Sáu Khởi cũng đi theo. Cách đây mấy năm, Sáu Khởi mang “loon” trung tá Công An, làm việc ở Kiên Giang.

Khi chế độ quân quản giải tán, “Năm Dũng” bàn giao y tế lại cho Ba Trực, người Châu Đốc, trưởng phòng y tế huyện Hà Tiên.

XX

Bà Thử, mẹ Ba Dũng là “cơ sở Việt Cộng”, có nghĩa là nơi thường lui tới của mấy tay tổ Việt Cộng nên mới có chuyện Nguyễn Tấn Dũng là con ông nầy, ông kia. Đám “ruộng chéo hợp tác xã xã hội chủ nghĩa” nầy có nhiều xã viên cày chung. Thế rồi bà ấy chán cảnh cày chung, bèn lấy chồng khác, đẻ thêm mấy đứa con nữa, là em khác cha của Nguyễn Tấn Dũng. Mấy đứa nầy hiện ở thị xã Rạch Giá, nhờ có cái dù của ông anh làm thủ tướng nên chúng nó giàu có, làm chủ mấy công ty xuất khẩu hải sản.

            Mẹ là con gái rơi của Nguyễn Sinh Sắc, không chắc rõ chồng là ai mà đẻ ra NTD, là con của Mười Minh, hay con rơi của Nguyễn Chí Thanh, Nguyễn Văn Linh hay con ông bí thư huyện Châu Thành B? Không ai biết đâu mà mò cho ra tung tích, trong khi Cộng Sản cái gì cũng bí mật nên lý lịch mấy tay Cộng Sản tối thui, không đâu ra đầu mối. Đúng là một đám hỗn độn, lộn xôn, toàn là con hoang, con nôm, con lạc dòng, con lạc vất lạc vơ. Nhìn chung, từ đám chóp bu cho tới đám hạ tầng xã ấp, như người ta thấy trong truyện “Ba Người Khác” của Tô Hoài thì rõ rồi.

            Ngay chóp bu thứ nhứt, cũng là con lạc dòng của ông Hồ Sĩ Tạo. Nguyễn Sinh Nhậm, bố ông Nguyễn Sinh Sắc, lúc Nhậm đã 70 tuổi,  được người ta gọi tới mà gã con gái cho, là một người đang có bầu – Có lẽ bụng cũng chưa lớn lắm khiến thiên hạ dễ hồ nghi. Tưởng vậy là che được mắt thiên hạ, nhưng rồi cả làng Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, làng ông Hồ Chí Minh, ai cũng biết ông bố ông Hồ Chí Minh là con lộn sòng. Cộng Sản chủ trương dấu kín, cái gì cũng dấu, dấu sự thực và công bố sự giả. Họ quên mất một điều, có cái sự thật nào ở đời nầy mà che dấu được thiên hạ. Một năm, hai năm, không biết; năm mười năm, người ta cũng biết, có dấu ai được đâu! (Độc giả muốn biết rõ hơn, xin xem “Quan hệ Ngô gia, Hồ gia” trong “Theo Dòng”, cùng tác giả do Văan Mới xuất bản)

            Đám đệ tử của Hồ, không ít người cũng là thứ lạc vất lạc vơ đâu đó: Trần Quốc Hoàn là thằng Cảnh du thủ du thực. Điều nầy ông Vũ Thư Hiên rõ lắm. Phùng Thế Tài cũng là một hạng như thế, điều nầy ông Việt Thường cũng rất rành. Từ một thằng du thủ du thực, dựng nó thành ông nầy, ông kia, cho nó địa vị, cho nó quyền lợi, cho nó hưởng thụ, sung sướng… thì có điều gì sai nó mà nó không làm được để bảo vệ quyền lợi của nó, phe đảng của nó. Đó chính là cách dùng người của Hồ Chí Minh, nói riêng hay Cộng Sản, nói chung vậy. Cách dùng người như vậy đều có bài bản cả.

            Đám nầy, từ Hồ Chí Minh trở xuống, người ta gọi bằng nhiều tên: Con lộn sòng, con lạc dòng, con hoang, con nôm. Có lẽ tiếng con nôm hơi lạ, tôi xin giải thích: Nôm ở đây không phải là văn chương chữ Nôm, biến dạng của chữ Nam như tôi có giải thích trong hai bài nói về “Văn Chương Chữ Nôm” và “Những Bài Thơ Nôm Đầu tiên…” mà nôm, theo thông tục, là hành động của một người đàn ông trèo lên bụng của một người đàn bà. Việc nầy phải vụng lén, không hợp lệ, không hợp pháp… của hai người không phải là vợ chồng. Vợ chồng ăn nằm với nhau như thế không thể gọi là nôm. Ở xứ tôi, tại miền quê, chữ nôm còn một nghĩa khác nữa. Ví dụ: “Bác qua nôm cho mạ tui một mụi, mai cha tui qua nôm lại.” Tiếng nôm như thế có nghĩa là qua cày giúp, bừa giúp cho một bữa (một mụi). Theo nghĩa trước thì ông Hồ Sĩ Tạo nhân lúc khuya khoắt, ai cũng ngủ say cả, cặp bậy nhau, hoặc lợi dụng chỗ vắng người, ngoài bụi tre, bờ ruộng mà nôm bậy một chị nông dân nào đó. Chị nầy có bầu, sợ mang tiếng, sợ làng bắt vạ (Hồi xưa không chồng mà chữa thì bị làng bắt vạ vì tội làm thương luân bại lý) đem gã cho ông Nguyễn Sinh Nhậm, mà sinh ra ông Nguyễn Sinh Sắc. Do đó, cái gốc chính của ông Hồ Chí Minh, là dòng dõi ông Hồ Sĩ Tạo, không dính dáng gì tới dòng họ Nguyễn Sinh cả, nên sau khi lên ngôi hoàng đế, anh học trò lớp ba trường Pháp Nam ngày xưa ở Huế nay trở lại với cái họ gốc của mình, là họ Hồ, bèn tự đặt tên cho mình là Hồ Chí Minh. Họ Hồ là họ gốc, còn tên Chí Minh là tên mượn ông Vương Chí Minh, một cán bộ Cộng Sản Tàu. (xem sách đã dẫn).

            Vậy Nguyễn Tấn Dũng con ai?

            Con ai thì không biết, nhưng rõ ràng là con nôm của Việt Cộng theo cái nghĩa ở trên. Hồi nhỏ, NTD không được ngó ngàng tới, nên phải ở với “ngụy”, học trường “ngụy”. Dưới con mắt Cộng Sản, cái “ngụy” nầy ảnh hưởng tới NTD nhiều lắm, nhưng mọi việc cho qua vì có lẽ hiện giờ ông ta có gốc lớn nào đó. Cứ “bảo lưu” cái chất “ngụy” đó trong con người NTD, mai mốt, cần thì đem ra xài chơi, kiểu như Lê Đức Thọ, nắm trong tay cái đơn “hồi chánh” với Thực Dân Pháp của Võ Nguyên Giáp, chờ khi Giáp rấp ranh ra làm tổng bí thư thì chìa cái đơn “hồi chánh” đó ra cho các “đại biểu” xem. Kết quả là Bùi Tín kẹt cứng bên Pháp, “ra đi không có ngày về”… vinh quang.

Những khi tạm yên, huyện ủy Châu Thành B. đóng tại Tà Keo, thuộc xã Mỹ Lâm, xã của Nguyễn Tấn Dũng. Hễ tình hình căng thẳng, đánh nhau dữ thì huyện ủy Châu Thành B chém vè, rút về kinh Kháng Chiến.

Nhân đây cũng xin nói thêm, Tà-Keo thuộc ranh giới ba quận của Việt Nam Cộng Hòa: Tận cùng phía nam quận Huệ Đức, thuộc Long Xuyên, chi khu nầy ít khi vói tới đây; phía cực tây quận Kiên Tân (tức phía cực nam xã Tân Hội – cũng thuộc quận Kiên Tân) và phía tây-bắc quận Kiên Thành. Chi khu Kiên Tân có cho đóng một cái đồn nghĩa quân cuối xã Tân Hội, lính tráng chỉ ngồi ngáp ruồi, chờ khi có lính làng lính lệ hay cảnh sát đi bắt quân dịt, quân gà thì bắn ba phát báo động để đào binh hay quân dịt quân gà biết mà dông tuốt vô đồng chó ngáp, chẳng ai nắm trúng giò chúng. Chỉ có quận và chi khu Kiên Thành, đóng ở quê hương của ca sĩ La Thạch Tuyền mới cho thám báo hoạt động ở đây.

Tôi có hành quân vùng ruộng ấp Tân Lập, phía nam xã Tân Hội một lần, đi lạc qua Kiên Thành, bị thám báo bên đó đánh cho một trận, may leo lên được xe cày mà chạy về kịp. Dịp đó, tôi tưởng là Việt Cộng, tụi nó dàn ra một trung đội, phía tôi chưa tới 5 ngoe, lo rút lui cho lẹ. Hóa ra, về tới nơi, mở máy PRC 25 liên lạc mới biết là thám báo chi khu Kiên Thành. Đám nầy giả cách ăn mặc và mang súng AK nên tôi tưởng lầm Việt Cộng. Trước khi chạy, chúng tôi bắn lại cũng gắt, cản đường chúng đuổi theo. May mắn chẳng ai chết, chẳng ai bị thương chớ không thì tôi đã mang hia đội mão ra chầu tòa án Quân Sự vùng 4 rồi. “Ham” đi đánh nhau với Việt Cộng, nghĩ lại thiệt là dại. Cái ham làm cho mình chết dễ như không!

            Đó là kỷ niệm thứ nhứt về quê hương Nguyễn Tấn Dũng. Còn một kỷ niệm nữa, xin kể cho vui.

            Khoảng đầu năm 1975, tình hình quân sự bấy giờ không yên như khi hiệp định Paris mới ký. Một hôm tôi đi Rạch Giá với tài xế và một anh tà lọt ngồi phía sau. Tôi thì lái xe, tài xế ngồi bên cạnh, lăm lăm khẩu AR 16, hễ thấy Việt Cộng là nổ súng ngay. Anh tà lọt thì mang một cây M-79. Mới tháng trước, tôi cũng đi Rạch Giá, về gần tới Đồn Giữa (Ranh giới xã Tín Đạo và Đức Phương) thì bị Việt Cộng từ bên kia kinh bắn B-40 qua. Bên tôi chỉ có 4 người: Tôi, tài xế và hai anh tà lọt ngồi phía sau. Biết B-40 bắn không tới, vả tụi nó cũng chỉ vài ba ngoe từ trong rừng ra khuấy rối chơi, nên tôi cho xe dừng lại, núp phía sau cabin xe, chỉa “Đại bác cầm tay 40 ly” gởi cho chúng nó ít quả làm quà. Trên ruộng nước, tụi nó chân thấp chân cao chạy trối chết. Bọn tôi thấy vậy càng vui, gởi tặng thêm ít quả nữa. Cũng may, chúng tôi chẳng ai có bằng thiện xạ nên tụi nó thoát chết lần đó.

            Trở lại hồi đầu, khi chạy xe ngang qua xã Mỹ Lâm tôi thấy một chiếc xe Jeep A-2 chạy ngược chiều. Xe qua rồi, tôi thoáng thấy trưởng xa mang hai sao! Tôi nói thầm: “Trời! Ông tướng nào mà gan dàn trời vậy cà? Dám đi một mình, một tài xế và một tà lọt như tôi vậy.” Vùng nầy tôi đi quen nên tôi không sợ Việt Cộng, còn ông tướng ở xa, biết xứ nầy như thế nào sao mà dám đi lang bang. Tôi hỏi tài xế: “Ông tướng nào vậy mầy?” Tài xế trả lời: “Chắc là ông Tướng Quân Khu”. Tôi giật mình. Tướng Quân Khu là ông Nguyễn Khoa Nam. Trời! Thấy ông tướng Quân Khu mà chẳng chào kính gì cả, lái xe tỉnh bơ, coi như hai bên “ngang nhau.” Ở vùng 4, trước kia là tướng Trưởng, bây giờ là tướng Nam, hai ông gan như nhau, chẳng ông nào sợ… Việt Cộng cả. Cũng hôm đó, trên đường về, ngang Mỹ Lâm, xe Jeep tôi lại hỏng máy: Dinamo không charge nên hết bình (điện). Mặt trời đã gần ngọn cây, trời tối dần, đường về còn xa, bụng tôi hơi lo! Hồi đó tôi chưa biết Nguyễn Tấn Dũng, nhưng nếu biết, lỡ Nguyễn Tấn Dũng có mò ra tới lộ, tôi cũng chỉa súng “nghinh đón” chớ không lý để Việt Cộng bắt sống sao! May có chiếc xe Dodge Thiết Giáp chạy ngang, thấy tôi là người quen, bạn đồng khóa, dòng dây kéo về, tới chỗ đóng quân còn sửa xe giùm cho.

Cám ơn Trời Phật!

hoànglonghải

 

 

No comments: