Tuesday, June 28, 2016

Bất Chợt Thu Về Đầu Hạ (Chương Cuối) - Thuyên Huy


Bất Chợt Thu Về Đầu Hạ (Chương Cuối)

 


Chương Hai Mươi Lăm

 
    Giữa hè, Chiêu nghỉ dạy, xuống Sài Gòn ở chơi với bà chị, cách nhà tôi mướn ở cuối đường Trần Quý Cáp, góc Cao Thắng không bao xa, cơm chiều cơm sáng, bà chị đãi rất thường, chuyện cũ vẫn còn đó, chiều tan sở ra, Chiêu lái xe Honda đến đón tôi, ra cửa hàng bà chị, ăn cơm tay cầm, đi lòng vòng quanh khu phố, nhìn người qua kẻ lại, giữa cái nắng chiều, lúc nào cũng tàn muộn, hai đứa có lại chút vui nhưng sầu chưa bỏ đi thì buồn cứ níu ghì đâu đó, kỷ niệm dường như mất dần dù đường phố Sài Gòn ngày nào vẫn vậy. Hôm Chiêu trở lên Tây Ninh, sửa soạn vài bữa nữa tựu trường trở lại, bà chị Chiêu, hình như hai bên gia đình nhắc nhở chi đó, hỏi chuyện hai đứa ra sao, có gì lấn cấn không mà không thấy rục rịch gì hết trọi. Cũng không còn gì để giấu diếm, như đã đồng ý với nhau, Chiêu nói thật câu chuyện chúng tôi, trong đó có đoạn Tường yêu Chiêu và những lá thư mà hắn gởi từ ngày vào quân trường, bà chị lặng thinh, nhìn mông lung ra đường, trước sân rạp chiếu bóng Rex, lưa thưa vài giọt nắng tím, lắc lư trên áo trên vai người, đứng chờ nhau, hỏi nhau trước cửa, nói nhỏ “thôi thì tùy hai đứa, tính sao cho ba mẹ hai bên vui là được rồi”. Tôi nhận được thư báo, chấp thuận học bổng du học ở Hòa Lan và chiếu khán nhập cảnh từ tòa đại sứ nước này vài hôm, sau ngày Chiêu về đi dạy lại, qua nhà báo tin cho bà chị của Chiêu trước, chị ra chiều lo âu “chuyện gì nữa đây”, tôi trấn an chị là “em đi rồi em sẽ về mà”, tuy nghe vậy nhưng thấy chị cũng chưa chịu cười trọn cái cười như chị muốn, tôi cũng như chị, từ ngày Tường mất, hai đứa tôi có được nụ cười nào trọn vẹn đâu. Nghe tin tôi đi du học hai năm, và có lẽ cả nhà hai bên đã biết chuyện hai đứa tôi rồi, không vui không buồn “thôi hai con tính sao thì tính”, nhưng tại sao thì chỉ có riêng mình chúng tôi hiểu.

    Một mình tôi lên nghĩa trang Biên Hòa thăm mộ Tường lần nữa, vì tôi sẽ lên đường trước ngày giỗ năm đầu của hắn, cũng bó hoa Huệ trắng, cũng mấy nén nhang thơm, cuối cùng, tôi nói cho Tường nghe, chuyện tình mình mà trong suốt một khoảng thời gian dài, hắn là kẻ đến sau, nhưng tất cả, sau hay trước gì thì cũng đã qua rồi, tôi thì thầm xin trời đất cho Tường được một đời an bình yên nghĩ, cho Chiêu và tôi, còn có được một chút hạnh phúc bình thường, nhỏ nhoi của kiếp người phải tiếp tục sống trong quảng đời còn lại, trên chuyến xe đò chiều về lại Sài Gòn, chút nước mắt cay xé, đổi màu nắng thưa mờ dần, bóng nghĩa trang khuất lần phía sau, tôi biết mình đang cố ngăn tiếng khóc.
 
 
 

   Tiếng gọi lần cuối, trong phòng chờ đợi, mời hành khách của chuyến bay Air France đi Ba Lê lên máy bay, thúc giục đâu đó, tôi và Tùng bắt tay chúc bình an, may mắn cho cả người đi và người ở lại, buổi sáng trời chưa thức hẳn, cả phi trường Tân Sơn Nhất mù mờ sương lạnh lùng, vàng vỏ, Chiêu đòi nghỉ dạy, xuống tiễn tôi đi nhưng tôi cản nên thôi, chiều hôm qua, đến ăn cơm tối trước khi lên đường ở nhà bà chị của Chiêu, chị tặng thêm cái khăn choàng cổ đan bằng len, Chiêu cũng đã đưa cho một cái trước đó, dặn tới dặn lui, nhớ mang vào vì nghe nói bên trời Âu, mùa đông lạnh lắm, ra về hai chị em ôm nhau từ giã “hẹn gặp lại hai năm sau”, tôi bỏ đi khỏi nhà chị khá xa, dưới ánh đèn đường hắt vào mái hiên vừa đủ sáng, chị vẫn đó đứng nhìn theo. Quàng túi xách lên vai, tôi lững thững đi về hướng cửa ra, theo nhóm người cùng chuyến bay, Tùng theo sau, chào hắn một lần nữa, đi gần tới chân cầu thang lên máy bay rồi mà Tùng cũng còn ở đó. Trên máy bay nhìn xuống, Sài Gòn lặng thinh bên dưới, trời buổi sáng chập chững thay màu nắng, tôi bỏ Sài Gòn đi và bỏ một chút buồn cho nhiều người ở lại.

    Vào học không bao lâu, tôi được thư Chiêu từ Sài Gòn gởi qua, lâu lắm rồi, tôi mới có lại cái cảm giác lâng lâng, xao xuyến trong hồn của đêm ngồi đọc lá thư đầu mà Chiêu viết trả lời cho tôi, khi ngồi học bài thi trong phòng học ở khu ký túc xá, Chiêu báo tin, Thảo Ly đã chuyển về dạy dưới trường nữ trung học Lê Văn Duyệt, gần đầu ngã tư Bảy Hiền cho gần với Tùng, Xưa đã lập gia đình với một anh sĩ quan hải quân VNCH, có gia đình quen với phía bên bác gái. Thảo Ly đi rồi, ngày hai buổi đi về một mình, tôi thì ở quá xa, hai năm chứ không phải một hai ngày, cảnh cũ, kỷ niệm xưa, con đường, góc phố, tiếng chuông, hàng cây, sân trường, tất cả cứ làm Chiêu ray rứt, xót xa, muốn cố mà quên cũng không quên được gì, nên Chiêu quyết định bỏ Tây Ninh đi, đổi xuống Cần Thơ, đường dài sông nước, cũng như đám bạn bè quen đã bỏ Tây Ninh từ lâu lắm.
 
 
 

    Cầm lá thơ trên tay, đứng bên khung cửa sổ nhìn xuống cuối sân cỏ,  giữa khu sinh viên ngoại quốc nội trú, giờ này, cuối chiều, lác đác hai ba người đi lên đi xuống, bây giờ là những ngày đầu mùa hạ nhưng hàng cây  chạy ven con đường băng qua mấy cái giảng đường cao, tường gạch nâu cũ kỹ, tơi tả rơi vàng một màu lá úa, khô và lẻ bạn, thì ra, ở đây, một phía trời,  xa quê nhà tôi dịu vợi, có một nơi mà mùa thu cũng bất chợ về đầu hạ.

 
Thuyên Huy

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

No comments: