Saturday, June 13, 2015

Sự Tích Chiếc Xe Trâu Của Phùng Quán - Nguyễn Quang Lập


 Sự tích chiếc xe trâu của Phùng Quán



    Những năm tám mươi mình ở quê, mỗi lần ra Hà Nội mình thường trọ hai
nơi, một là nhà Phạm Xuân Nguyên, hai là nhà Phùng Quán. Chỉ hai nơi
đó là mình cảm thấy hoàn toàn tự do như ở nhà mình. Nhà thằng Nguyên
bằng cái lỗ mũi, chưa đầy chục mét vuông. Vợ chồng nó còn trẻ, có mình
chúng nó như bị cấm đoán chuyện vợ chồng, rất khổ nhưng chúng nó vẫn
vui vẻ. Mình cũng ái ngại lắm. Thường trước khi ngủ mình nốc rượu thật
say, một là để ngủ cho ngon, khỏi phải tưởng tượng lung tung, hai là
ngầm thông báo cho chúng nó là mình say rồi, “chết” rồi, muốn làm gì
thì làm, hi hi.

Lúc đầu cứ ra Hà Nội là mình tấp vào nhà thằng Nguyên. Một hôm, anh
Quán đến chơi nhà thằng Nguyên gặp mình ở đấy. Tàn cuộc anh kéo mình
ra ngõ, nói mày vô nhà lấy đồ anh chở lên nhà anh. Mình ngạc nhiên,
nói răng rứa anh. Anh cười, vỗ nhẹ vai mình, nói mày có vợ rồi mà tồ
lắm. Mày nằm chềnh ềnh ra đó, tụi nó biết mần ăn ra răng. Mình ok
liền, vui vẻ theo anh về nhà. Bây giờ mình mới để ý chiếc xe đạp của
anh Quán, nó to quá cỡ, trông thô kệch kinh hồn, chưa bao giờ mình
thấy chiếc xe đạp nào to kềnh càng và thô kệch như xe này, ống tuýp
khung xe to hơn cổ tay, nan vành xe chiếc nào chiếc nấy to bằng đầu
đũa, không thèm nói ngoa.

Anh Quán nói đó là xe trâu, người Nga dùng nó làm xe thồ, chở vài tạ
vẫn chạy tốt. Mình hỏi sao anh mua xe này. Anh cười cái hậc, nói tiền
đâu mà mua, có tiền cũng chẳng có mà mua, xe này khắp Hà Nội bói không
ra một chiếc. Mình nói ủa, rứa răng anh có. Anh nói người ta tặng.
Mình hỏi ai tặng, anh nói Lênin. Mình cười phì, nói anh không biết nói
trạng. Lênin chết năm nào, anh sinh năm nào mà bảo Lênin tặng anh
chiếc xe đạp này. Anh cười hì hì, nói rứa mới tài.

Mình không hỏi nữa vì biết thế nào anh cũng kể, tính anh thích kể có
đầu có đuôi, ít khi kể gọn lỏn một câu. Anh hay kể mấy chuyện liên
quan đến sự viết của anh. Anh kể cái truyện Vượt Côn Đảo tất nhiên anh
bịa, hồi đó nghe người ta kể lại một phần anh bịa ra chín phần. Cho
đến ngày anh ngồi kể cho mình nghe, khoảng năm 85 - 86 chi đó, anh vẫn
chưa biết Côn Đảo méo hay tròn. Trong đó có mấy câu anh tả con đường
từ nhà tù ra bãi dương (trường bắn) được lót xương của các tù nhân bị
án tử hình. Là anh bịa ra thế để nâng cao lòng căm thù Đế quốc thực
dân chứ xương người làm sao lót được đường. Chẳng ngờ trong hồi ký của
một ông ở tù Côn Đảo về (ông này nổi tiếng lắm, không dám nêu tên, hi
hi) khi viết về con đường này cũng tả y chang như anh tả, cũng con
đường lót xương các tù nhân, he he.

Cũng chuyện tù Côn Đảo, trong Trường ca Võ Thị Sáu (thực ra là bài thơ
dài, in nguyên một trang báo Tiền Phong) anh viết tuổi 16 chị Sáu vẫn
hái hoa lê-ki-ma cài tóc. Buổi sáng ngày bị hành hình, chị đã ngắt một
nhành hoa lê-ki-ma cài lên mái tóc, trên đường ra pháp trường chị vừa
đi vừa hát. Anh đâu biết lê-ki-ma là cây gì, nghe cái tên đẹp thì
tưởng hoa của nó chắc đẹp lắm. Sau này mới biết lê-ki-ma thực ra là
cây quả trứng gà, hoa đã xấu lại đầy nhựa, “ngắt một nhành hoa cài mái
tóc” có mà dở hơi. Ai dè bác Nguyễn Đức Toàn lấy cảm hứng từ bài thơ
của anh để viết bài Biết ơn Võ Thị Sáu (chắc khi đó bác Toàn cũng
không biết cây lê-ki-ma là cây gì): Mùa hoa lê-ki-ma nở ở quê ta miền
đất đỏ/ Thôn xóm vẫn nhắc tên người anh hùng/ Đã chết cho mùa hoa
lê-ki-ma nở…Chị Sáu đã hy sinh rồi/ Giọng hát vẫn như còn vang dội vào
trái tim…Anh Quán cười khà khà, nói sau này hễ viết về chị Võ Thị Sáu
thì người ta lại bê nguyên chi tiết này vào, vui quá là vui.

Đến ngày thứ ba anh Quán mới kể sự tích chiếc xe trâu. Bữa đó trời
mưa, anh đi đầu về, chạy rật rật vào nhà, miệng nói tay chỉ, nói Lập
Lập mày bê chiếc xe đạp vào nhà cho anh. Mình chạy ra, vừa nhấc lên đã
lè lưỡi, nặng quá là nặng. Mình vừa thở vừa nói xe này đúc bằng sắt
hay sao, nặng như chiếc xe máy. Anh Quán cười nhẹ, nói thì bằng sắt
chứ sao, có tí nhôm nào đâu, có rứa mới gọi là xe trâu. Anh lôi chai
rượu vừa kiếm đâu về rót ra hai ly, nói uống đi. Xe này anh kiếm được
thời viết văn chui đấy, chuyện hay lắm.

Anh kể đâu như năm 69 - 70, bé Đỗ Quyên, con gái đầu của anh, đang học
cấp I. Mùa hè thì không sao, cứ đến mùa đông là nó thường xuyên đi học
muộn. Trời rét mướt cả nhà ngủ khì trong chăn ấm, đến khi tung chăn
vùng dậy đã bảy, tám giờ rồi. Con gái bị cô giáo phê bình liên tục,
anh xót lắm, nghĩ bụng không biết làm thế nào kiếm được cái đồng hồ
báo thức. Đồng hồ báo thức Liên Xô hồi đó bán phân phối giá 20 đồng,
đối với anh Quán là cả một món tiền to. Nhưng giá có kiếm được 20 đồng
cũng chả đến lượt anh, sổ gạo còn hồi hộp sợ có ngày bị cắt mất, anh
đâu dám mơ được phân phối đồng hồ.

Đến chơi nhà Trần Dần, anh thấy có tờ họa báo Phụ nữ Liên Xô, vừa lật
vài trang chợt thấy thông báo thể lệ cuộc thi viết về Lênin. Ngó xuống
phần giải thưởng, giải khuyến khích là đồng hồ báo thức, bút máy và
một vài thứ khác. Lập tức anh về nhà viết ngay, quyết giành cho được
cái giải khuyến khích. Chừng hai ngày anh viết xong cái truyện Như con
cò vàng trong cổ tích. Tất nhiên anh không lấy tên thật. Anh thư vào
Nghệ An cho chú em họ đang làm công nhân lâm trường gì đấy, xin phép
được lấy tên anh ấy. Sở dĩ anh lấy tên chú em họ, vì chuyện thi cử anh
không dám mượn tên mấy ông bạn nhà văn anh vẫn mượn tên, hơn nữa lấy
tên một người thuộc giai cấp công nhân chắc người ta sẽ ưu tiên hơn.

Mới gửi thì thấp thỏm lắm, thỉnh thoảng có bưu tá gọi ra ngõ lấy thư,
trống ngực đập to hơn trống làng, cứ tưởng bở thư chú em họ báo tin
giải thưởng. Hơn nửa năm vẫn biệt vô âm tín, tuyệt vọng luôn. Trách
mình to đầu mà dại, tự nhiên đơm đó ngọn tre, đấu với các anh tài của
cả 12 nước Xã hội Chủ nghĩa, cái giải rút cũng đừng có mà mơ.

Một hôm rượu say anh ngủ như chết, chị Trâm, vợ anh, véo cho cái rõ
đau. Anh giật mình mở mắt, chị Trâm cầm tờ giấy báo trúng giải chú em
họ vừa cầm ra đưa qua đưa lại trước mắt anh, ối cha mẹ ơi giải nhất!
Anh tự véo đùi mình hai ba cái để xem mình tỉnh hay mơ. Chú em họ mặt
nhăn như bị, nói anh mần ri chết em rồi. Anh hỏi sao. Chú em họ kể
giấy thông báo về buổi sáng, buổi chiều đã ồn khắp lâm trường, một
ngày sau thì ồn ra cả tỉnh. Một ông công nhân ở nơi khỉ ho cò gáy bỗng
nhận cái giải nhất của Liên Xô, lại giải nhất viết về Lênin thế mới
kinh. Đài lâm trường, đài huyện, đài tỉnh đua nhau nói râm ran. Các
nhà báo kéo nhau về lâm trường ầm ầm, chú em họ hãi quá, nửa đêm nhảy
tàu ra nhà anh.

Chuyện nghiêm trọng. Việc này nếu lộ ra chẳng những anh mất toi cái
giải nhất mà việc viết văn chui của anh hơn chục năm qua nhất định bị
lật tẩy, khéo không tù tội như chơi. Anh lạy lục chú em họ đã thương
thì thương cho trót, cố làm sao đừng để chuyện này lộ ra. Anh diễn
giải phân tích cái truyện, đặt ra đủ loại câu hỏi rồi trả lời, để chú
em họ đối phó với đám nhà báo. Chú em họ cay đắng ra về, thôi thì đâm
lao phải theo lao, nếu lộ ra anh Quán chết thì anh cũng chết theo,
chẳng phải chuyện chơi.

Được hơn một tuần, nửa đêm chú em họ lại mò ra, lôi trong bị ra cái
đồng hồ báo thức và năm chục đồng đưa cho anh Quán, nói của anh đó,
anh cầm đi rồi tha cho em, hai ba tuần nay vợ chồng em mất ăn mất ngủ,
kiểu này rồi cũng “tăng xông” đứng tim mà chết, chẳng sống được đâu.
Hỏi thì chú em họ kể, hết lâm trường mít tinh biểu dương đến huyện, sở
hội họp khen ngợi. Lại còn Tỉnh ủy gọi lên chiêu đãi, tặng 50 đồng; Ủy
ban tỉnh gọi lên chiêu đãi, tặng đồng hồ báo thức. Hai vợ chồng chú em
họ sợ hết hồn, cứ mỗi lần có trát gọi là tim họ nhảy lên sau gáy, mặt
mày xanh như đít nhái.

Rồi cũng qua. Ngày anh Quán đưa chú em họ đến Đại sứ quán Liên Xô nhận
chiếc xe đạp là ngày cuối cùng trong suốt ba tháng trời căng thẳng hồi
hộp. Anh nấp sau gốc cây bên kia đường, đối diện cổng Đại sứ quán,
căng thẳng đến độ mồ hôi đầm đìa toàn thân, ướt sũng cả áo quần, chỉ
sợ đến phút chót mọi việc bị lật tẩy. Chờ suốt ba tiếng đồng hồ mới
thấy chú em họ đẩy chiếc xe đạp đi ra. Anh ôm chầm lấy chú em họ nghẹn
ngào không nói được. Hồi lâu mới nấc lên, nói em ơi, ơn em đời đời
kiếp kiếp. Anh theo Vệ quốc quân vào sống ra chết không biết bao nhiêu
lần, chưa lần nào anh sợ như lần này.

Nghe đến đây tự nhiên mình muốn khóc.

Nguyễn Quang Lập

304Đen - llttm

No comments: