Thursday, January 8, 2015

Xuân Nhật Tức Sự - Nguyễn Xuân Hưng


 Xuân Nhật Tức Sự của Huyền Quang

 
 

    
    Bài này là bài thơ chữ Hán, có tên "Xuân nhật tức sự", tức "Tức cảnh ngày xuân". Trong nhiều tài liệu được cho là tác phẩm của Huyền Quang. Nhưng cũng có tài liệu cho rằng, đây là bài thơ Thiền đời Tống.
Huyền Quang, tên thật là Lý Đạo Tái (1254-1334) đỗ tiến sĩ đời Trần, làm quan, sau đó đi tu. Quãng đời đi tu của ông để lại tiếng thơm, vì ông là Tổ thứ 3 của Thiền phái Trúc Lâm (Sau vua Nhân tông và Pháp Loa).

Nguyên văn bài thơ này như sau:

 
二八佳人刺繡持,

 紫荊花下轉黃鸝。

可憐無限傷春意,

盡在停針不語時。

 

Phiên âm:

 
Xuân nhật tức sự

 
Nhị bát giai nhân thích tú trì,

Tử kinh hoa hạ chuyển hoàng ly.

Khả liên vô hạn thương xuân ý,

Tận tại đình châm bất ngữ thì.

 
Dịch nghĩa: 

 
Tức cảnh ngày xuân

 
Người đẹp tuổi vừa đôi tám, ngồi thêu gấm chậm rãi,

Dưới lùm hoa tử kính đang nở, líu lo tiếng chim oanh vàng.

Thương biết bao nhiêu cái ý xuân,

Cùng dồn lại ở một giây phút, đứng kim và im phắc
 
 

 

 
Bản dịch thơ của Nguyễn Xuân Hưng

 
Ngày xuân

 
Người đẹp ngồi thêu gấm mê say

Dưới hoa chim hót động vòm cây

Cảm nỗi ý xuân thương biết mấy

Dồn vào phút lặng chợt ngừng tay

 
Tham khảo bài dịch của Nguyễn Huệ Chi

 
Ngày xuân tức cảnh

 
Lỏng tay thêu gấm, gái yêu kiều,

Hoa rợp, oanh vàng lảnh lót kêu.

Bao nỗi thương xuân, thương biết mấy,

Là khi không nói, chợt dừng thêu.

 
Mở đầu, 2 câu thơ của Huyền Quang, diễn giải ra là: Một cô gái 16 tuổi ngồi thêu gấm, hoa tử kinh nở, chim hoàng ly bay nhảy ca hát. Đó chắc là một khung cảnh lãng mạn. Hai câu đầu bài thơ là bức tranh đẹp, thanh bình và thơ mộng.

Hai câu đầu này, có thể nhiều nhà thơ “không Thiền” cũng làm như vậy. Nhìn sơ qua, nó là phép tả thực. Thi sĩ thấy thế nào, tả thế đó. Tất nhiên, hình ảnh thực tại phải qua nhận thức của bản thân thi sĩ. Song, nếu không phải một nhà Thiền học, thì có lẽ không làm như 2 câu thơ tiếp theo.

Bằng phép diễn dịch thô sơ, hai câu ấy có nghĩa là: Có nỗi niềm thương vô hạn ý xuân; chính là dồn lại ở phút dừng kim thêu, im lặng.

Bắt đầu có sự khó hiểu.

 Đến đây, bắt buộc phải nói qua về Thiền và Thiền Trúc Lâm. Không thể không nói.

Thiền Trúc Lâm mà Huyền Quang là đại diện, tổ thứ ba của Thiền phái, là Thiền kế tục Thiền tông. Lịch sử Thiền trôi chảy từ Thiền Phật giáo Nguyên thủy đến Thiền Đại thừa, rồi đến Thiền của Thiền tông, là một quá trình biến đổi quan niệm Thiền, biến đổi cách hành Thiền. Phép tu Thiền có hành động tu, và có chứng.

 Tu là nhận thức thế giới khách quan thông qua tâm (trực chỉ nhân tâm), có ảnh hưởng ở truyền thống Định và Quán từ thời Phật tổ. Chứng là biến cố ngoài thời gian, nhận thức sự thật mà cuộc đời vô thường đang diễn ra, và chứng đến tận cùng thì thấy được Tính, tức là đạt đến Giác Ngộ. Như vậy, tu thì có thể dần dần, mà chứng thì có thể bất thình lình, trong phép tu Thiền, gọi là Đốn Ngộ. Trong các pháp môn, thì Thiền còn được gọi là Đốn Giáo, tức khi đã tu đến mức nào đó đạt đến Kiến Tính, tức có Đốn Ngộ, tức thình lình thành Phật (kiến tính thành Phật). Thiền Trúc Lâm kế thừa Thiền tông, cho rằng, về lý luận, có thể thành Phật ngay cõi đời này. Trần Nhân Tông đã phát biểu tóm tắt chân lý “Cư trần lạc đạo” cũng là chuyên chở tinh thần này.

 Trong bài thơ Xuân nhật tức sự, có hai quá trình Thiền lồng vào nhau.

Khi nói về cô gái 16 tuổi (đôi tám = 16, cách nói thời xưa) đang ngồi thêu, có thể hiểu cô ta thêu dưới dàn hoa có hoa nở, chim hót. Song, thực ra cũng có thể hiểu, cô ta đang thêu hoa, thêu chim. Dưới bàn tay cô, hoa và chim đang dần dần hiện ra. Cô gái đang nhận thức cuộc sống vô thường này, đó là một dòng chảy biến đổi không ngừng, hoa nở, chim chuyền. Bàn tay thêu chính là phép tu trong Thiền học, mà hoa và chim là chứng quả. Cô gái cứ thêu thong thả, say mê, đến một lúc nào đó bàn tay ngừng, vạn vật im lặng, đó là giây phút của Đốn ngộ, của kiến tính. Đấy chính là khi nhận thức được Xuân ý. Xuân ý ở đây chính là Phật tính của quá trình sự việc đã diễn ra.

 Song, cũng có một quá trình Thiền khác, một vòng tròn bao quát cả quá trình trên. Tức là xuất phát từ tâm tác giả. Tác giả ở đây đã ẩn mình, nhưng vẫn hiện rõ cái bản ngã khi ông ta miêu tả cảnh xuân: một cô gái, dưới hoa và chim đang chuyền cảnh ca hát. Nếu chỉ thế thôi, thì mọi thi sĩ cũng đã thấy. Đó là quá trình tu chứng của người đang Thiền. Nhưng với Thiền sư, ông đã phát hiện ra Xuân ý trong cái khung cảnh khi mà cô gái ngừng tay thêu, vạn vật im phắc. Đó là khung cảnh tưởng tượng, trong một giây phút chưa chắc có thật trong thực tế, nhưng mà về mặt lý thuyết thì giây phút ấy chắc chắn tồn tại. Đối với tác giả, cả cô gái và hoa và chim đều là chứng trong phép tu Thiền, để đạt đến kiến tính là Xuân Ý.

 Đó là phút Đốn Ngộ, mà Phật tính mang nội dung của Ý xuân. Đó là phút giây tâm không vướng bận, cõi Niết Bàn ở ngay cuộc sống này. Từ khi đạt đến "ngừng tay, ngừng tiếng" tức là đạt đến nơi Kiến tính, qua phép Đốn Ngộ, thì hiện rõ cái Không. Phút Không huyền diệu ấy không còn phụ thuộc tác giả nữa, nó là tự do tuyệt đối, không vướng bận...Có thể liên hệ tư tưởng Thiền trong các bài thơ Thiền khác. Một bài nổi tiếng là bài “Cáo tật thị chúng” của Mãn Giác Thiền sư, hay “Ông chài” của Thiền sư Không Lộ… vân vân.

 Có tác giả là Giáo sư Tiến sĩ ở Trường “Đại học Khoa học và Nhân văn” ? (NPH) đã phân chia thơ Lý Trần thành 2 loại: Thơ Thiền triết học và Thơ Thiền lãng mạn. Hồi còn biên tập Tạp chí Nghiên cứu Phật học, tôi chém hầu hết bài luận lê thê này, chỉ để lại phần tóm tắt. Thơ Thiền mà phân loại thành 2 loại như vậy, thực sự có làm luận án tiến sĩ nọ kia, thì cũng không hiểu quái gì về Thiền cả. (Dĩ nhiên sau đó ông ấy phản ứng rất dữ dội)

Cái gọi là “Thơ Thiền” tức là phải nhìn thấy thông điệp về tư tưởng Thiền trong bài thơ ấy. Mà Thiền thì có phải là một phép thực hành viễn tưởng nào đâu, có phải phép tu tập của người ngoài trái đất đâu. Cho nên, trước hết, thơ ca dù có mang tư tưởng Thiền, cũng là một tác phẩm văn học tức nó phản ảnh cuộc sống, trước hết, nó phải là “thơ”. Mà đã là thơ chuyên chở tinh thần Thiền thì phân loại thành “Triết học” hay “Lãng mạn” đều là việc làm kỳ khu không cần thiết, nếu không nói thẳng là hiểu rất lệch lạc.

 Tất nhiên, khi đọc bài thơ không phải với con mắt Thiền học, thì bài thơ vẫn là một tác phẩm văn học hoàn thiện. Đây là một thể tuyệt cú. Loại thơ 4 câu này có truyền thống từ Đường thi. Đường thi cũng chịu ảnh hưởng của không khí xã hội Trung Quốc khi đó nặng tinh thần Thiền tông Trung Hoa, chuyên chở cả Lão giáo trong đó. Tinh thần này truyền vào Nhật, được người Nhật rất thích, tích hợp với tinh thần Võ sĩ đạo, thành triết lý Tĩnh nổi tiếng của Nhật.

 Với cái nhìn thông thường, bài thơ Xuân nhật tức sự cũng là một bài thơ hay, có thể bình rằng, đó là khung cảnh xuân lãng mạn, mà phút lắng đọng đã được tác giả nhin thấy giữa dòng chảy đầy tính động của mùa xuân. Đó là xuân ý trong tâm hồn con người giữa mùa xuân... vân vân..

 Nguyễn Xuân Hưng

Người chuyển bài – Hồ Khánh Dũng

 

No comments: