Friday, January 9, 2015

Cố Thi Sĩ Vũ Hoàng Chương Dạy Lũ Văn Nô Cộng Sản - Sông Lô


Cố Thi sĩ Vũ Hoàng Chương dạy dỗ lũ văn nô bồi bút CSVN

“Câu chuyện sưu tầm kể lại dưới đây của Sông Lô đăng trên DanchimVietOnline về giai thoại Thi sĩ Vũ Hoàng Chương (VHC) sau 1975 đã bị nhóm Thi sĩ tiền chiến theo Cộng sản Bắc Việt như : Tố Hữu , Xuân Diệu , Huy Cận , Chế Lan Viên đã đạo diễn  hai tên bộ ha. Thanh Nghị là một văn công "gộc" của MTGPMN và văn nô Hoài Thanh đã cưỡng bách Thi sĩVHC lên tiếng thẩm định 2 câu thơ lục bát trứ danh "nô bộc tôi tớ Xì-Ta-Lin" của Tố Hữu trong bài " Đời Đời Nhớ Ông"



 
 
Vũ Hoàng Chương: Con người dại hay can đảm ?

Nàng trả con về nơi xóm cũ
Nghẹn ngào trở lại đẩy xe nôi
Rồi từ hôm ấy ôm con chủ
Trong cánh tay êm luống ngậm ngùi

Nàng nhớ con nằm trong tổ lạnh
Không chăn, không nệm ấm, không màn
Biết đâu trong những giờ hiu quạnh
Nó gọi tên nàng giọng đã khan

Rồi từ đêm ấy những đêm sau
Hồi hộp nàng ra tựa cửa lầu
Ngó xuống ven trời đầy bóng nắng
Tìm nghe trong gió tiếng con đâu

Gió vẫn vô tình lơ lửng bay
Những tàu cau yếu sẽ lung lay
Xạc xào động cánh.. nàng mơ tưởng
Như tiếng lòng con vẳng tới đây

Nàng nhớ con u sầu rũ rượi
Gục đầu thổn thức trên bàn tay
Bạn ơi nguồn gốc sầu kia bởi
Số mạng hay do xã hội này

 
( Vú em - Tố Hữu)


Đây là một trong những bài thơ gối đầu giường của tôi, khi còn là học sinh trung học . Ở Miền Nam lúc bấy giờ, những bài thơ hay, được phổ biến của các thi sĩ thời tiền chiến rất được giới học sinh chúng tôi yêu chuộng . Thậm chí có những bài thơ còn được đưa vào chương trình học ở nhà trường, bất kể là thi sĩ sáng tác bài thơ ấy đang phục vụ cho chế độ chính trị nào, dù là Miền Nam hay là Miền Bắc .

Bài thơ "Vú Em" ở trên của nhà thơ Tố Hữu, đối với tôi lúc nào cũng vẫn là một bài thơ hay . Tác giả tả lại tình cảnh một người mẹ trẻ nghèo phải đi ở vú cho người khác, lấy sữa của nàng cho con của chủ bú và ấp ủ con chủ trong vòng tay ấm áp của mình . Khi ấy, con của nàng ở nhà khóc đến khản tiếng vì đói lạnh và thèm thuồng một vòng tay ấp yêu của mẹ . Càng thương con bao nhiêu, càng đau bấy nhiêu, nhưng chỉ biết tấm tức khóc thầm mà xót xa cho thân phận hẩm hiu của mình, chứ biết làm sao hơn . Cuối cùng tác giả kết luận, vì đâu mà có cảnh éo le như vậy, phải chăng đó là số phận hay là do cái xã hội bất công này ? Đây là một kết luận nhân bản và đấy ắp tình người .

Nhắc lại bài thơ trên như nhắc lại dĩ vãng một thời mà đối với tôi chỉ còn là vang bóng, nó đã gợi cho tôi sống lại cái thuở thanh bình ngắn ngủi, vào những năm 56, 57, 58 ở miền Trung với nhiều luyến tiếc .

Cái thuở thanh bình xa xôi ấy, được sống trong môi trường hiền hòa chân thật, ấm no thịnh trị, được nuôi dưỡng trong tình thương của cha mẹ anh em, của bà con chòm xóm, của lũy tre làng, của giòng sông xanh hiền hòa trong mát .

Với một môi trường như vậy, lẽ dĩ nhiên con người cũng ảnh hưởng theo mà rất dễ chạnh lòng trước bất cứ một hiện tượng bất công nào, cho dù hiện tượng ấy chỉ được diễn đạt trong thi ca .

Thuở ấy tôi hiền và nhát quá
Nép mình bên gác thánh lầu chuông
Để nghe khe khẽ lời em nguyện


Thế nhưng càng về sau, theo tuổi lớn, sống trong chiến tranh loạn lạc của quê nhà, với bom đạn xới cày, với ngút ngàn thù hận, tôi bước vào cuộc đời bằng chiếc áo trận của người lính Thủy Quân Lục Chiến với quyết tâm bảo vệ quê hương, bảo vệ phần đất tự do còn lại, nhưng than ơi! sau đó ... nhất là với những năm tháng "được" nằm trong trại "học tập cải tạo" sau năm 1975 .

Thấm thía và chiêm nghiệm được sự chân thật và dối trá, tình đời và lòng người, hai mặt của một đồng tiền, xa hơn là cái con người của quần chúng và con người của cá nhân, cái con người cá nhân đối với con người cá nhân hay con người cá nhân đối với con người của tập thể cũng như con người của tham vọng và con người của quyền lực, Trong đó con người của tham vọng và con người của quyền lực, sao mà ghê gớm quá .

Từ cảm nhận trên, tôi thường chủ quan đánh giá hay nhìn bất cứ một đối tượng nào đều thiên về bản chất hơn là hiện tượng . Cũng vậy, cái nhìn đối với nhà thơ Tố Hữu, thần tượng thi ca một thời của tôi bỗng chốc xụp đổ tơi bời . Qua bản chất tôi biết đó là một ông quan văn nghệ đầy tham vọng và nham hiểm, nó hoàn toàn ngược lại với một số bài thơ "hiện tượng" đầy tình người mà ông đã sáng tác, cái ác hầu như chiếm tỷ lệ cao ở trong ông, "Từ Ấy" ông sợ bằng con đường vương đạo sẽ không có chỗ cho ông tiến thân hoặc nếu có thì cũng chỉ có từ rất chậm đến chậm mà thôi, nên chi ông không ngần ngại chọn con đường bá đạo kể cả tạo ra những "hoạn lộ" cho những thi hữu cùng thời với ông để đường tiến thân của ông được suông sẻ mà vươn lên .

Thương dân thương nước thương nhà
Thương con thương cháu thương cha ông mình
Thương chi ông Sit-ta-lin
Để cho Từ Ấy hằn in vết chàm
Bầm Ơi! có thấu chăng Bầm
Mặc ai khổ nhục vinh thân là mình
Chiến trường đô? Máu ba quân
Trung ương Hoa nở tưng bừng Bầm ơi


Chân dung của nhà thơ Tố Hữu mà tôi đã cố gắng gói ghém trong tám câu lục bát này không ngoài tham vọng là để cho bất cứ một người yêu thơ nào khi đọc lên là sẽ nắm bắt được ngay ý của tôi .

Đối với những người VN quan tâm đến thi ca, cho dù là thi ca cận đại hay là thi ca tiền chiến mà không biết đến thơ của Tố Hữu, Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Huy Cận v.v .. thì cũng chẳng khác nào những người quan tâm đến nhạc tiền chiến mà không biết đến những nhạc sĩ Đoàn Chuẩn-Từ Linh, Văn Cao, Đỗ Nhuận, Đặng Thế Phong v.v ..

Riêng khi nhắc đến nhà thơ Tố Hữu, hơn năm mươi bốn năm nay những người yêu thơ ở trong nước cũng như ở hải ngoại, không ai là không nghĩ đến hai câu thơ lục bát nổi tiếng mà nhà thơ đã sáng tác vào năm 1953 khi nghe tin Stalin bị chết .

Thương cha, thương mẹ, thương chồng
Thương mình thương một, thương ông thương mười .


Tố Hữu là một nhà thơ có tài, sáng tác rất khỏe, ông mất đi đã để lại cho đời nhiều bài thơ nổi tiếng, có giá trị văn học, thậm chí có nhiều bài thơ của ông đã và đang được đưa vào dạy ở học đường XHCN, thế nhưng hai câu thơ:

Thương cha, thương mẹ, thương chồng
Thương mình thương một, thương ông thương mười .


Tuy không được đưa vào học đường nhưng nó đã dính liền với ông như bóng với hình, kể từ lúc sáng tác ra nó cho đến bây giờ, dù ông đã mất . Nó như vết xăm, xăm lên người, không thể nào tẩy xoá được .

Số là sau 1975 khi Sài Gòn bị đổi tên thành thành phố HCM, Tố Hữu lúc bấy giờ là quan văn nghệ từ trung ương ngoài Bắc vào Nam có ghé đến nhà Thanh Nghị, một quan Văn Hoá vừa từ trong bưng ra, có một ngôi biệt thự xinh xắn do chiếm được ở góc đường Thống Nhất và Hai Bà Trưng . Ông này cũng như tôi thuở "vụng dại", xem Tố Hữu là thần tượng của mình .

Để làm hài lòng thần tượng và là xếp lớn, Thanh Nghị liền tụ tập một số những nhà thơ lão thành tiền chiến tên tuổi, tổ chức một đêm "họp văn nghệ", nói là để đánh giá sơ khởi thi ca cả hai miền như là tiền đề cho sự thống nhất văn học sau này . Nhưng mục đích chính là để "hóa giải", để "thẩm định" lại, cho đúng đắn hai câu thơ của Tố Hữu đã thường xuyên bị "bia miệng" trong "dân gian" xách mé châm chọc .

Theo như tác giả Vân Xưa trong bài "Thơ Tố Hữu" đăng trên Quê Mẹ số 63/64 có kể rằng:

Thanh Nghị trình bày ý kiến của mình trước và cho rằng châm biếm vì ác ý hơn là vì nghệ thuật đúng đắn . Hai câu lục bát này thật ra không thể chê vào đâu được . Nó vừa khẩu chiếm vừa xuất thần mà khẩu chiếm và xuất thần là những tiêu chuẩn cao nhất, định giá trị thi ca VN . Nó đồng thời thể hiện truyền thống thi ca bình dân nước ta, qua hai vần lục bát thật thoát sáo, vừa giữ vẹn hồn tính một ca dao vừa đưa loại thi ca giọng quê lên ngang giọng bác học .

Với vỏn vẹn có 14 chữ, trong đó từ "thương" bẩy lần láy lại và còn 7 chữ kia "cha, mẹ, chồng, mình, ông, một và mười" đều là những từ không có mấy thi tính . Thế mà Tố Hữu đã ghép lại và khi ta ngâm lên thì thấy rõ ràng thần tính từ 14 chữ (đúng ra là 8 từ) ấy cuồn cuộn thoát ra, thâm nhập hồn người thưởng ngoạn, khiến hồn tính con người rung động như tơ đồng trên phím khi nhạc sĩ vuốt vào giây, thật là hết ý .

Thanh Nghị vốn khéo ăn khéo nói, lại thao thao bất tuyệt nên cử tọa bị lôi cuốn theo mà "đồng thanh tương ứng" nhận cách ông thẩm định hai câu thơ của Tố Hữu là xác đáng. Thế rồi có ai đó yêu cầu các thi sĩ có mặt ở "hiện trường" xác minh thẩm định trên, dựa theo những câu thơ đắc ý của mỗi người .

Lấy những vần ít bác học mà so, Xuân Diệu đem hai câu mình đắc ý trong bài Buồn Trăng,
Ngẩng đầu ngóng mãi chưa xong nhớ
Hoa bưởi thơm rồi, đêm đã khuya


Mà cho rằng, không thể truyền cảm sâu sắc hơn hai câu thơ của Tố Hữu được
Huy Cận thì đọc hai câu thơ trong bài Áo Trắng mà mình cho là tâm đắc,

Em lùa gió biếc vào trong tóc
Thổi lại phòng anh cả núi non
.


Để phải nhận rằng, hai câu thơ của Tố Hữu gây xúc động mạnh hơn, dồn dập hơn trong khu vực tình cảm mỗi bên, khi muốn dùng thi ca để tác động tâm hồn yêu thơ .

Chế Lan Viên không muốn nhắc đến lũ "Ma Hời" của mình mà đưa hai câu cuối trong bài "Mùa Xuân Chín" của Hàn Mặc Tử sáng tác lúc còn là học sinh trung học ở Quy Nhơn mà ông cho là tuyệt bút,

Chị ấy năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang


Để so với hai câu của Tố Hữu, ho. Chế cho rằng hai bên đều là thơ hay ở mức độ cao, cách phổ diễn niềm đau trước cuộc tình bỗng dứt, một bên vì dang dở, một bên vì tử biệt sinh ly . Nhưng phải chịu là hai câu của Tố Hữu gần hồn tính bình dân, hai câu của Hàn Mặc Tử không sánh kịp .

Các nhà thơ khác không ai dám "cầm đèn chạy trước ô tô" hoặc dây vào qua cách dùng thơ của mình để mổ xẻ và so sánh như các bậc thi bá nêu trên, có thể là vì tự trọng, có thể là sợ bị mang hoạ vào thân hay cũng có thể là cả hai, nhưng nói chung, hầu như đa số đều tán đồng sự thẩm định như đã nêu .

Hoài Thanh tác giả "Thi Nhân VN" mà Hà Sĩ Phu sau này có vẽ chân dung của ông như sau:

Vị nghệ thuật nửa cuộc đời
Nửa đời sau lại vị người ngồi trên
Nét này vẽ bác Lan Viên
Bác Hữu, bác Cận hay riêng bác Hoài
Chân dung các bác ngời ngời
Chém cha cái nửa phần đời phía sau
Cuộc đời hai nửa vì đâu
Nửa say quỷ kế nửa đau nhân tình


không chính thức có làm thơ nên không có thơ được quyền khỏi mổ xẻ, "hú hồn", tuy vậy, ai cũng hướng về ông như muốn ông cùng nhập cuộc . Không hiểu Hoài Thanh có ý né hay không, nhưng chưa ai kịp lên tiếng mời ông thì ông đã vội mời Vũ Hoàng Chương thẩm định

Nhà thơ họ Vũ vốn người không mấy cân quắc, lại ăn nói ôn tồn nhỏ nhẹ, nãy giờ chìm lỉm dưới làn kinh truyện tuôn từ các bậc thi bá đắc thời, không ai nhìn thấy ông .

Hoài Thanh gọi đến Vũ Hoàng Chương có lẽ để né tránh thật nên đề nghị là phải có một nhà thơ của Miền Nam góp ý . Nhưng chắc hẳn không muốn chờ một ánh sáng hay một tia chớp "đột xuất" nào .

Vũ Hoàng Chương biết thế nên cứ từ tạ, nhưng rồi Thanh Nghị "mớm mồi" ép thêm vào mà trong bụng tin rằng con người Vũ Hoàng Chương hiền hòa, ắt không sợ xảy ra cảnh "cũng gươm, cũng mác, cũng anh hùng" như ông Hồ đối đáp một mình với đức Trần Hưng Đạo .

Ai đã biết Vũ Hoàng Chương, ắt phải biết cái đanh thép bên trong tấm thân nhỏ bé ọp ẹp của ông . Đôi ba lần từ tạ không được, đành nhảy vào ưỡng ngực "hò kéo pháo", nhưng trước khi vào cuộc hò, Vũ đã yêu cầu cử tọa thông cảm nếu có chỗ nào thất thố vì ông sợ rằng những gì ông muốn trình bày sẽ làm tổn thương cái "sáng giá" của đêm họp "văn nghệ đặc biệt" này, bởi "tất tần tật" đã thẩm định rồi .

Sau đây là lời của Vũ Hoàng Chương do người có bổn phận điếu đóm đêm hôm ấy thuật lại .

"Thi nhân từ cảm xúc mỗi lúc tác động vào tâm cảnh của mình, để hồn trí phản ứng theo thất tình con người mà vận dụng thi tứ phổ diễn nên lời một tình tự nào đó, rồi đãi lọc thành thơ . Sự vận dụng càng xuất thần, việc phổ diễn càng khẩu chiếm, thơ càng có giá trị cao .

Cảm xúc trước cái chết của một thần tượng được "đóng khung" tự bao giờ trong tâm cảnh mình, Tố Hữu đã xuất thần vận dụng nỗi u hoài, phổ diễn nên những lời thơ thật khẩu chiếm, rồi dùng những từ thật tầm thường, ít thi tính, đãi lọc nỗi u hoài của mình thành một tiếng nấc rất tự nhiên . Đạt đến một mức độ điêu luyện cao . Lời thẩm định của Thanh Nghị thật xác đáng, tôi chịu .

Nhưng thơ không phải chỉ có thế . xuất thần khẩu chiếm thuộc phạm vi kỹ thuật, dù đã có thi hứng phần nào, và nếu chỉ có thế thì thơ chỉ có khéo mà thôi, chưa gọi là đạt . Tức chưa phải là hay . Thơ hay vừa phải khéo như thế vừa phải đạt thật sự . Thi hứng nằm trong sự thực của tình tự phổ diễn nên lời . Tình tự mà không thực, lời thơ thành gượng ép . Vấn đề của thơ nói cho đến nơi, là ở đây, có nghĩa là thơ phải thực .

Tố Hữu đặt tiếng khóc của chính mình vào miệng một bà mẹ VN, muốn bà dùng mối u hoài của một nhà thơ để dạy con tre? VN yêu cụ Stalin thay cho mình . Cũng chẳng sao vì đó cũng là một kỹ thuật của thi ca, nhưng trước hết phải biết bà mẹ VN đó có cùng tâm cảnh với mình không, có chung một mối cảm xúc hay không ?

Tôi biết chắc là không . Bởi trong đoạn trên của hai câu lục bát này trong bài "Đời Đời Nhớ Ông", Tố Hữu đã đặt vào lời bà mẹ hai câu:

Yêu biết mấy nghe con tập nói
Tiếng đầu lòng con gọi Stalin


Chắc chắn là không có một bà mẹ VN nào, kể cả bà Tố Hữu mà thốt được những lời như vậy một cách chân thành, cái không thực của hai câu này dẫn tới cái không thực hai câu ta đang mổ xẻ .

Một tình tự không chân thực, dù được luồn vào những lời thơ xuất thần, khẩu chiếm đến đâu cũng không phải là thơ đẹp, thơ hay mà chỉ là thơ khéo làm, đó chỉ là thơ thợ chứ không phải là thơ tiên . Loại thơ khéo này người thơ thợ nào lành nghề cũng quen làm, chẳng phải công phu lắm . Nhất là nếu có đòi hỏi cho một tuyên truyền nào đó . Tố Hữu nếu khóc lấy, có lẽ là khóc thực, khóc một mình . Những bà mẹ VN trong bài đã khóc tiếng khóc tuyên truyền, không mấy truyền cảm .

Rồi ông kết luận, hai câu lục bát của Tố Hữu, theo ý mình, chỉ là những lời thơ khéo, không thể so sánh với những câu thơ của những nhà thơ vừa nêu ở trên, bản chất khác hẳn” .


Lời thẩm định trên của Vũ Hoàng Chương đã gây sôi nổi, sôi nổi vì bất bình nhiều hơn là vì tranh luận . Một vài cử tọa muốn đẩy họ Vũ đến chỗ bí, để hóa giải thẩm định ngược dòng của ông . Họ đã yêu cầu ông nói về thơ và sự thực mà ông đã đưa ra để chê Tố Hữu và cùng nghĩ rằng Vũ Hoàng Chương khó lòng mà đưa ra một luận cứ vững vàng được . Nhưng Vũ Hoàng Chương cứ vẫn ôn tồn "giải trình" tiếp:

“Thơ vốn là mộng, là tưởng tượng, là tách rời thực tế, nhưng mộng trên những tình tự thực . Không chấp nhận loại tình tự hư hoang . Có khoa học giả tưởng, không có thơ giả tưởng, nói thơ là nói đến thế giới huyễn tưởng, huyễn tưởng trên sự thực để thăng hoa sự thực, chứ không bất chấp, không chối bỏ sự thực . Nhà thơ không được láo, nhà thơ phải thực nhưng thoát sáo sự thực thành mộng để đưa hồn tính người yêu thơ vươn lên sự thực muôn đời đạt đến chân lý cuộc sống . Thiên chức thi ca là ở chỗ đấy .

Tôi xin nhắc: Sự thực muôn đời là cơ sở duy nhất của thi ca . Vì có sự thực cho riêng một người, có sự thực cho riêng một thời, nhưng vẫn có sự thực cho muôn đời, sự thực bao quát không gian, thời gian, chân lý cuộc sống.”

Hình như những ngày sau "cái đêm hôm ấy" Vũ Hoàng Chương đã bị bắt đi học tập và chết khi được tha về không bao lâu, có người nói Vũ Hoàng Chương là người dại, nhưng cũng có người nói Vũ Hoàng chương là người can đảm .
Theo tôi ông là một con người tự do, con người tự do không phải quỳ lụy trước bất cứ một áp lực nào, con người tự do có đức tính tự trọng cao và là con người can đảm . Như Phùng Quán nói:
Yêu ai cứ bảo là yêu
Ghét ai cứ bảo là ghét
Dù ai ngon ngọt nuông chìu
Cũng không bảo yêu thành ghét
Dù ai cầm dao dọa giết
Cũng không bảo ghét thành yêu .


Những người nói ông dại, không biết phía sau chữ dại ấy có ẩn chứa gì không, nhưng sao thấy nó ghê gớm và hèn hạ quá chừng .

Cũng nhân bài viết này chúng ta thử giải thích vì sao những bài thơ tiền chiến của Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên thì được giới yêu thơ yêu thích cho dù chỉ là dăm ba câu, còn những bài thơ sau này của cả ba rất ít người nhắc đến . Phải chăng cái thực của muôn đời so với các thực của một thời là vậy ? Cái thực một thời của cả ba là cố gượng, cố ép thi ca của mình lặng hụp trong dòng đấm đá đấu tranh giai cấp mất cả tính người . Tiếc thật ...
Biển khổ mênh mông sóng ngập bờ
Khách trần chèo một mái thuyền chơi
Thuyền ai ngược sóng ai xuôi sóng
Cũng ở trong cùng biển khổ thôi .

(Vũ Hoàng Chương)


 Sông Lô sưu tầm

304Đen-Lượm lặt - Trang TinParis

No comments: