Thursday, November 27, 2014

Thơ cỗ Lạc Tân Vương - Nguyễn Cang


Thưởng thc bài thơ hay bng ch Hán"Ti Ngc Vnh Thin" ca Lc Tân Vương (640-684)

                 (Nguyn Cang gii thiu và trình bày)

 



 
    Trong văn hc s kéo dài hơn 300 năm t sơ Đường ti thnh Đường ri vãng Đường, thnh Đường là thi cc thnh ca văn chương Trung Hoa vì đã xut hin nhiu tác gi vi nhng bài thơ ni tiếng cho ti ngày nay vn còn  được nhc nh. Tuy vy trong thi sơ Đường cũng đã có nhiu nhà thơ khác ni danh không kém. Lc Tân Vương là mt trong bn nhà thơ tiêu biu, được thiên h xếp vào hàng T kit: Vương Bt, Lư Chiếu Lân, Dương Quỳnh và Lc Tân Vương ca thi by gi.

Xin gii thiu bài thơ có ta đ “Ti Ngc Vnh Thin, mt bài thơ mang nét n d đc bit bng cách t “con ve su” đ nói lên tâm s mình ca nhà thơ Lc Tân Vương.

                       在獄詠蟬  (Tác gi: Lc Tân Vưong 駱賓王)        

Phiên âm: Ti ngc vnh thin ( tác gi: Lc Tân Vương)

 

1.  西陸蟬聲唱,       Tây lc thin thanh xướng

2.  南冠客思深            Nam Quan khách t thâm

3. 不堪玄鬢影             Bt kham huyn mn nh                              4.  來對白頭吟             Lai đi bch đu ngâm

5.  露重飛難進             L trùng phi nan tiến

6.  風多 響易沉             Phong đa hưởng d trm.

7.  無人信高潔,         Vô nhân tính cao khiết,

8.  誰為表予心             Thuỳ v biu dư tâm.

Xut x Năm 678 sau Công Nguyên, Lc Tân Vương đang làm Th Ng S  Tràng An ( mt chc quan nh trong triu). Nhiu ln vì câu chuyn văn chương mà sanh hiu lm đáng tiếc đi vi  Võ tc Thiên  nên  ông b tng giam. Bài thơ được làm trong lúc ông nm trong ngc. Đêm  đêm  nghe nhiu âm thanh trong đó có tiếng ve su bun thm, gây cm xúc  u hoài và  ông đã mượn tiếng ve đ nói lên ni lòng oan c ca mình.

Gii thiu tác gi: Lc Tân Vương Nghĩa Ô thuc U Châu tnh Chiết Giang,Ông tng gi chc v nh Tràng An. Sau vì bt mãn vi triu đình nên ông theo phò T Kinh Nghip chng li Võ Tc Thiên. Cuc binh biến tht bi ông b tù. Ra tù ông đi lang thang, không rõ tin tc , có người bo ông đi tu...

Chú thích t ng:

   vnh: dùng thơ ca đ miêu t.

   thin: con ve

   tây lc: ch mùa thu

   Nam quan: ch min Nam ( đây là nước S)

   bt kham: bt chp

   huyn mn : cánh mng con ve

  lai: đến

   bch đu: đu bc, tui già .

   Ý  câu 4/ Ve đang  gi tôi, mà tôi b giam  thì làm gi bây gi ? tác gi không  sao cm lòng cho được.

    Câu 5/ Sương móc khá đm làm ướt cánh ve nên ve không ct cánh bay lên được.

    Câu 6/ gió ln quá khiến tác gi không nghe được âm thanh bên ngoài cũng không còn nghe được tiếng ve ngâm;  chng khác nào ni kh đau, oan c ca tác gi phi chu by lâu nay.

    cao khiết:cao thượng và thanh khiết.

   ý câu 7/ tác gi và ve đu có tính cao thượng và thanh khiết ca người quân t mà không ai hiu cho.

   biu: bc l, bày t.

  ý câu 8/ ai là ngươi bc bach dùm ni oan ca ta nh?

Dch nghĩa:

                          Trong Ngc Ca Ngi Tiếng Ve

                       1/ Trong tù, ngày thu, nghe tiếng ve kêu,

                       2/ khiến tù nhân thêm nh nhà

                       3/ Bt chp cánh mng, ve vn đến gi

                       4/ ta bun vì đu bc (li đang trong tù)

                       5/ sương nng, cánh ướt,ve ct cánh không ni

                       6/gió mnh ,tiếng chìm mt khiến người tù không còn nghe được.

                       7/ta  và  ve vn tính cao thượng và thanh khiết mà chng ai tin.

                       8/ ai là ngươi bc bch h ta nh?

 Li bình:

Lc Tân Vương là người thích văn chương thơ phú, ông bt đu làm  thơ  ngay t lúc còn nh. S thích ny luôn đeo đui ông sut cuc đi. Khi lãnh chc v nh ti Tràng An, s nghip thơ văn ca ông càng phát trin mnh m, to điu kin cho ông kết bn vi nhiu người trong chn văn chương. Nhưng tiếc thay ông quên mt mt điu là mc du "văn chương vô mnh" nhưng cũng có th gây "h lu" đau bun v sau.  Ông thường đưa ra nhng ý kiến phê bình v tình trng bt công  xã hi, ông mun đt nước hùng mnh người dân được m no hnh phúc. Nhng đ ngh ca ông không được Võ Hu chp thun trái li còn b ghép vào ti khác, tng giam vào ngc. Trong thi gian theo phò T Kính Nghip, Lc Tân Vương có làm thay cho ch tướng mình mt bài hch rt ni tiếng ta là "V T Kính Nghip tho Vũ Chiếu hch", trong đó ông t cáo s tàn ác và thi nát ca triu đi Vũ- Hu, ri nói đến s cn thiết ca mt cuc khi binh. Nhân danh vic làm đi nghĩa đ chiêu d, đng thi ly thưởng pht công minh đ khích l. Văn phong tht hùng hn m l li đanh thép, hng hc khí thế đu tranh làm nc lòng quân sĩ.

        Theo nhn xét ca thy Trn Trng San thì "Bài ny được coi là mt kit tác ca th văn hch.  Cui đi Đông Hán, Trn Lâm làm bài hch vch ti Tào Tháo rt ni tiếng, nhưng xét ra thì không bng bài ny."   

        Trong thơ văn Vit Nam, thi hào Nguyn Du cũng đã có ln  lun bàn v “h lu ca văn chương” khi ông đc phn còn li ca quyn "Đc Tiu Thanh Ký" (讀小青記).  Ông không cm được xúc đng khi biết được câu chuyn tình đy thương đau ca nàng Tiu Thanh Tây H, Hàn Châu, TrungQuc. Tiu Thanh  là mt người con gái tài sc, tư cht thông minh, hc hành gii giang. Ngay t nh nàng đã thông hiu đy đ các môn ngh thut: cm kỳ thi ho. Năm 16 tui, nàng được gã làm v l cho Phùng Sinh, mt công t con nhà gia thế. Tiu Thanh  rt thích văn chương thơ phú, Tiếc rng nàng làm v l, b v  c đánh ghen, hành h khi khám phá ra tài thơ văn ca nàng.  Nhng câu thơ bng li yêu đương nng cháy đi vi chng làm bà v c ghen tc. Chính Tây H là nơi bà v c đày Tiu Thanh sng  trong cô đơn qunh qu cho ti chết. Trong cun "Đc Tiu Thanh ký" còn sót li hơn mt chc bài khi tp thơ b v c đem đt.  Nguyn Du xem sách mà chnh lòng, thương cm cho thân phn ca nàng Tiu Thanh, ông liên tưởng đến chuyn đi 300 năm v  sau, biết còn có ai khóc cho ông như ông đã khóc cho nàng Tiu Thanh hôm nay không? (Bt tri tam bách dư niên hu/ Thiên h hà nhân khp T Như?)

 

[ Nguyên văn chữ Hán:

              讀小青記

              西湖花苑盡成墟

              獨吊窗前一紙書

              脂粉有神憐死後

              文章無命累焚餘

              古今恨事天難問

              風韻奇冤我自居

              不知三百餘年後

              天下何人泣素如

. Phiên âm Hán – Việt : Độc Tiểu Thanh kí:

              Tây hồ hoa uyển tẫn thành khư,

              Độc điếu song tiền nhất chỉ thư.

              Chi phấn hữu thần liên tử hậu,

              Văn chương vô mệnh lụy phần dư.

              Cổ kim hận sự thiên nan vấn,

              Phong vận kì oan ngã tự cư

              Bất tri tam bách dư niên hậu  

              Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như.]

 Qua phân tích ta thy hai người: Lc Tân Vương và Tiu Thanh cng yêu thích văn chương, nhưng cách th hin tài năng nhm mc đích khác nhau và "h lu" sau cùng ca hai người li ging nhau, mt chết mt b tù.

       Trở lại bài thơ "Tại Ngục Vịnh Thiền" của Lc Tân Vương. Đây là bài thơ ngũ ngôn bát cú Đường lut, lut trc, vn trc, gồm 8 câu, mỗi câu 5 chữ đã gói trọn tâm tư tình cảm của tác giả. Vần được gieo ở cuối các câu 2,4,6,8 (thâm, ngâm, trầm, tâm).

                *Đề (câu 1&2 ) 

1. 西陸蟬聲唱           Tây lc thin thanh xướng

2. 南冠客思深          Nam Quan khách t thâm    

Mở bài tác giả giới thiệu một một nhân vật đặc biệt: người tù.

 Bối cảnh: thời gian mùa Thu cho ta biết cảnh vật u buồn, lá vàng rụng bên song cửa, sao mà hiu hắt! Bên ngoài có tiếng ve ngâm tha thiết, nức nở như cứa miết vào không gian làm tăng thêm nỗi sầu của người tù bất hạnh.

Nỗi nhớ nhà sao mà nhức nhối : nào vợ nào con , nào bạn bè thân thiết không biết bây giờ ra sao? Cảm giác mất mát nầy không ai hiểu nổi bằng chính người tù.

           *Thực ( câu 3&4):

   3. 不堪玄鬢影               Bt kham huyn mn nh                                      

   4.  來對白頭吟             Lai đi bch đu ngâm

           Trong một phút bất chợt, người tù cảm nhận được tiếng kêu  nghe lớn hẳn và ve kia đang bay lại gần để chuyện trò, tâm sự với người tù. Tâm trạng lạ lùng nầy chứng tỏ người tù còn nuôi một chút hy vọng, cái hy vọng tuy mong manh lại có giá trị như một an ủi vô biên. Ở đây tác giả đã dùng phép nhân cách hoá để ve sầu biết suy nghĩ, nói năng, tâm sự với người tù.  Âm thanh bên ngoài, tiếng ve kêu hay bất cứ tiếng động nào cũng được người tù chú ý để biết chuyện gì đang xảy ra, biết một thế giới thực mà người tù cần có như một sinh vật cần không khí để thở.  Nguồn sống nhỏ nhoi đó lại là một nguồn kích thích cho sự tồn tại của con người ở thế gian nầy.

     * Luận (câu 5&6) :

  5.  露重飛難進             L trùng phi nan tiến

  6.  風多響易沉              Phong đa hưởng d trm.

  Nhưng hỡi ôi! Người tù tưởng được nói chuyện với chú ve kia nào ngờ giờ đây tuổi già sức yếu biết còn sống được bao lâu? Nguồn hy vọng chợt tắt khi ngoài trời sương lạnh xuống thấp, tuyết phủ đầy trên cành cây ngọn cỏ, khiến cho ve bị ướt cánh không bay lên được, còn người tù  thì  vì gió quá to nên không  nghe được âm thanh bên ngoài cũng như tiếng nói của chính mình. Đêm càng khuya sương lạnh càng xuống nhiều, chú ve sầu mệt mỏi, cánh ướt nặng trịch, nó bám chặt vào nhánh cây sồi trơ lá,  cất lên tiếng kêu rè rè  như tắt nghẽn , như đứt hơi. Người ta  có cảm tưởng như đó là tiếng dế, tiếng côn trùng  chớ không phải là tiếng ngâm râm ran, tha thiết, ảo não của con ve sầu vào những buổi trưa hè thanh vắng. Đó cũng chính là hình ảnh của tác giả mượn xác ve để nói lên nỗi bất hạnh và sự bất lực của mình.

      Về mặt nghệ thuật, tác giả sử dụng  phép ẩn dụ kết hợp với  nhân cách hoá con ve như một người có ý thức biết đối thoại và thông cảm nỗi đau của tha nhân. Tác giả tự cho mình và ve có những đức tính cao thượng, thanh khiết của người quân tử mong người đời thấu hiểu, và cũng mong bà Võ Hậu tha tội để ông về sống bình lặng với gia đình. Nhưng thương thay! Lời nói của ông như nước chảy qua cầu để rồi sau cùng ông kêu lên trong  tuyệt vọng: Ai người bộc bạch cho ta bây giờ?

     Kết (câu 7&8):

 7.  無人信高潔,         Vô nhân /tính cao khiết,         (2/3)

 8.  誰為表予心              Thuỳ v/ biu dư tâm.             (2/3)

    Tiếng "Thuỳ" đặt ở đầu câu, đóng vai trò một nghi vấn đại danh từ. Ai? Người nào? Tác giả khéo dùng để diễn tả một tiếng kêu khẩn thiết, âm thanh như đứt đoạn làm chạnh lòng trắc ẩn, xót thương cho kẻ bị hàm oan. Thơ ngắt nhịp điều đặn 2/3, diễn tả nỗi thất vọng, sầu thảm kéo dài, đồng thời cũng nói lên khát vọng tư do của người tù, mong mỏi thiết tha được giải oan để sớm trở về xum họp với gia đình và người thân. Người đọc cảm nhận một cách sâu sắc những bất hạnh của tác giả và sẵn sàng chia xẻ niềm đau.

Bài thơ khép lại nhưng nỗi buồn còn đọng trong tim. Tác giả diễn đạt thật mạch lạc, xúc tích, hàm chứa nỗi oan khiên bất tận, biết đến bao giờ mới được giải toả?  Bài thơ theo bút pháp truyền thống của lối thơ cổ điển Trung Quốc thời Sơ Đường nhưng ngôn ngữ được sử dung một cách khéo léo để mô tả tình huống và tâm trạng có thật của người tù, gây xúc động mạnh mẽ cho người đọc.

           Dịch bằng thơ:

Trong ngục vịnh ve sầu 

( người dịch: Nguyễn Khuê)

 Thu đến ve vang tiếng,

Người tù ý thiết tha.

Cánh đen* kham chẳng nỗi,

Đầu bạc tới ngâm nga.

Sương nặng bay xa khó;

Gió nhiều tiếng thoảng qua.

Ai tin chuyên cao khiết,

Mà lòng tỏ hộ ta.

 

Chú thích: Từ "huyền mấn" thầy Nguyễn Khuê dịch là "cánh đen", theo suy nghĩ của tôi thì thầy dịch theo nghĩa đen, dựa vào phép đối trong câu 3 và 4 của bài thơ ngũ ngôn  bát cú  Đường luật, "huyền" đối với "bạch"( tức "đen" đối với "trắng") rất chỉnh, nhưng khi dịch ra âm tiếng Việt thì nghĩa không hay. Theo thiển ý của tôi  có lẽ nên dịch theo nghĩa bóng "cánh mỏng" như nhiều tác giả khác thì nghĩa rõ hơn.

Tham khảo: "huyền mấn": mũ cánh mỏng. Theo Yên Hoa ký: Cung nhân nước Nguỵ chế mũ cánh mỏng như cánh ve sầu.

            Nguyễn Cang

 

 

No comments: